Kịch bản “trỗi dậy” của Trung Quốc và lựa chọn của Việt Nam
Chỉ ngay trong năm nay, dự báo cập nhật của nhiều tổ chức quốc tế cho thấy Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để trở thành nền kinh tế số một thế giới. Sức mạnh về kinh tế luôn đi kèm với sức mạnh chính trị, và cái giàn khoan trên biển Đông khiến người ta phải quay trở lại câu hỏi là quốc gia này liệu sẽ “trỗi dậy” như thế nào.
Giới nghiên cứu khoa học chính trị chia thành hai quan điểm khác nhau về hướng đi của Trung Quốc, bài viết này sẽ sơ lược cả hai, và những lựa chọn ứng phó cho Việt Nam.

“Trỗi dậy hòa bình”?
Các học giả theo phái “tự do” (liberalism), cho rằng Trung Quốc buộc phải trỗi dậy hòa bình. Quốc gia này sẽ phải hòa nhập vào trật tự thế giới hiện có, thay vì cố thiết lập một trật tự thế giới mới vốn sẽ tạo ra nhiều nguy cơ xung đột. Biện luận bảo vệ quan điểm này được đưa ra như sau.
Thứ nhất, trật tự thế giới hiện tại, thống trị bởi Mỹ và phương Tây, dễ tham gia nhưng rất khó lật đổ. Bởi nó được thể chế hóa trên tất cả các mặt: kinh tế (có các tổ chức như WTO, World Bank, IMF), chính trị (Liên Hiệp Quốc, EU), xã hội (mạng lưới NGO và tổ chức quốc tế dày đặc), và thậm chí cả thể thao-văn hóa (FIFA).
Quan trọng hơn, chính sự hấp dẫn về mô hình xã hội dân chủ sẽ giúp trật tự hiện tại đứng vững trong cuộc chiến về lý tưởng. Rất khó tưởng tượng một dân tộc nào đó lại muốn có một mô hình nhà nước độc đoán kiểu Trung Quốc. Điều này giải thích cho việc Trung Quốc không hề có một “người bạn” chiến lược nào, ngoài trừ Bắc Triều Tiên.
Thứ hai, Bắc Kinh từ kẻ ngoài cuộc trở thành một người được hưởng lợi nhiều từ hệ thống hiện tại. Nhờ tham gia vào thương mại toàn cầu, Trung Quốc trở thành nhà xuất khẩu số một thế giới, đem lại thặng dư đến 4,000 tỷ đô la. Các nhà đầu tư đổ tiền của vào Trung Quốc để họ thành công xưởng của thế giới, đưa hàng trăm triệu người thoát khỏi nạn đói nghèo. Mỹ hiện là đối tác thương mại và con nợ số một của Trung Quốc.
Vậy nên, như Giáo sư Ikenberry của ĐH Princeton từng nói, “sẽ không có sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua nếu nước này không tham gia vào hệ thống kinh tế thị trường phương Tây.”
Điều này hẳn sẽ làm cho Bắc Kinh phải nghĩ kỹ trước khi lật bàn để lập ván cờ mới.
Thứ ba, khác với Liên Xô ngày xưa, về mặt lý thuyết chính Trung Quốc cũng thừa nhận xã hội “công bằng-dân chủ” là mô hình lý tưởng nhất, mặc dù thực tiễn hành động thì có thể khác nhiều. Họ ủng hộ Tuyên bố Thiên niên kỷ, trong đó đề cao các giá trị phổ quát (universal values) như nhân quyền và dân chủ.
Tất cả những điều này, các học giả liberal tranh luận, khiến cho Trung Quốc có “lợi ích cốt lõi” trong việc giữ ổn định một hệ thống kinh tế mở, tự do, và hòa bình như hiện tại. Họ sẽ không dám gây ra những hành động quá khích làm bất ổn khu vực và thế giới.
Điều đó sẽ giúp kinh tế quốc gia này tiếp tục phát triển, qua đó giữ được tính chính đáng (legitimacy) của đảng cầm quyền. Hơn 1,3 tỷ người Trung Quốc chấp nhận mất đi các quyền tự do công dân để đổi lấy thịnh vượng về kinh tế, và Bắc Kinh biết rõ điều đó hơn ai hết.
Châu Á: tâm bão của thế kỷ 21
Tuy thế, việc Trung Quốc liên tục gây hấn với các nước láng giềng từ bắc xuống nam trong thời gian qua khiến quan điểm thứ hai của phái “hiện thực” (realism) có lẽ là thực tế hơn: Bắc Kinh không thể trỗi dậy hòa bình.
Sự đi lên của của một siêu cường tất yếu sẽ buộc nó phải thách thức trật tự hiện tại để giành miếng bánh lớn hơn, và để bảo vệ lợi ích kinh tế ngày càng tăng.
Đế quốc Anh từng như vậy. Đế quốc Mỹ từng như vậy. Ngay cả những nước “suýt” trở thành siêu cường như Đức và Nhật cũng làm như vậy, vậy tại sao lại không phải là Trung Quốc, nước đã từng là bá chủ châu Á và luôn muốn trả mối hận “trăm năm quốc nhục” khi bị phương Tây thống trị từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20?
Một cường quốc đang lên không bao giờ chấp nhận bị phong tỏa. Họ chắc chắn muốn tiếng nói có nhiều trọng lượng và quyền lực hơn trên sân nhà của mình. Trung Quốc muốn là số một ở Châu Á-Thái Bình Dương.
Vì vậy, nói như một ông tướng quân đội Trung Quốc trên tờ Economist: “Với Bắc Kinh, sự hiện diện của Mỹ ở trong khu vực chẳng khác nào một tên du côn có nhiều tiền án lởn vởn ngoài cửa.”
Ba thập niên phát triển kinh tế vượt bậc cũng là giai đoạn mà Trung Quốc hiện đại hóa mạnh mẽ quân đội. Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (Stockholm International Peace Research Institute-SIPR), Bắc Kinh đã tăng ngân sách quốc phòng lên gấp ba lần trong 10 năm (2001-2011).
Dù vẫn đứng khá xa so với Mỹ, số tiền bỏ ra cho quân sự của Trung Quốc đứng thứ nhì thế giới, đạt 188 tỷ USD (hơn GDP của cả Việt Nam trong năm qua).
Các nhà cầm quyền Bắc Kinh có thể tuyên bố rằng họ tăng cường vũ trang chỉ để “phòng vệ” chứ không phải để “bành trướng”. Nhưng nói như GS John Mearsheimer của ĐH Chicago, lời nói chẳng mất tiền mua và chính trị gia thì thường xuyên nói dối.
Người ta không thể biết được ý đồ của Bắc Kinh là gì, chỉ thấy thực tế là tiềm lực quân sự của quốc gia này ngày càng mạnh và nguy hiểm hơn trước. Theo Global Security, Trung Quốc có lượng quân đông nhất thế giới, hơn bảy triệu người, gấp đôi số quân của Mỹ.
Khi không thể chắc chắn về ý đồ của nước láng giềng hùng mạnh, đặc biệt là sau những hành vi khiêu khích về lãnh thổ, các quốc gia trong khu vực tất nhiên phải tự bảo vệ mình. Họ làm điều đó theo hai cách.
Thứ nhất, chạy đua vũ trang với Trung Quốc, chí ít là để tăng thêm khả năng phòng vệ. Nhật Bản tăng gấp đôi ngân sách quân sự trong 10 năm qua, và đang nỗ lực thay đổi hiến pháp để cho phép lực lượng phòng vệ được dùng vũ lực. Ấn Độ tăng cường sức mạnh hải quân để chống lại chiến lược “chuỗi ngọc trai” (string of pearls) của Trung Quốc. Thủ tướng mới được bầu của Ấn Độ, Narendra Modi, là chính trị gia nổi tiếng với chính sách cứng rắn hơn về vấn đề chủ quyền.
Ngay cả những quốc gia bé hơn như Việt Nam cũng tích cực trang bị thêm vũ khí và tiềm lực quốc phòng, đặc biệt là hải quân và không quân.
Thứ hai, các nước trong khu vực đang có xu hướng liên minh với nhau và với cường quốc đang giữ vị trí thống trị ở Châu Á-Thái Bình Dương là Hoa Kỳ để “kiềm chế” (contain) sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Hiện tất cả các quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương có tranh chấp lãnh thổ trên biển với Bắc Kinh đều có hiệp ước quân sự với Mỹ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Đài Loan), ngoại trừ Việt Nam.
Hoa Kỳ, với tư cách là siêu cường duy nhất trên thế giới, tất nhiên không muốn từ bỏ khu vực Châu Á-Thái Bình Dương chiến lược. Điều đó được thể hiện trong chính sách “xoay trục” (Asia pivot) của Tổng thống Obama với hàng loạt các cam kết đảm bảo an ninh cho các đồng minh thời gian qua. Và nhìn vào lịch sử, có thể thấy rằng Mỹ là một quốc gia chưa từng xuống nước với bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào.
Khi cả hai bên đều tăng cường quân sự, nó tất yếu sẽ dẫn tới một cuộc đua vũ trang không có điểm dừng. Rủi ro khi đặt các kho thuốc nổ nằm cạnh nhau là rất lớn.
Chính vì thế, Robert Kagan, một học giả chính trị người Mỹ, cho rằng Châu Á của thế kỷ 21 không khác nào châu Âu của thế kỷ 19 với những kèn cựa của các cường quốc trỗi dậy và nguy cơ xung đột.
Bá quyền khu vực
GS Mearsheimer cho rằng, điều mà Trung Quốc muốn không hẳn là thống trị toàn cầu, mà là trở nên mạnh hơn tất cả trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, để không ai có thể đe dọa lợi ích của họ. Nói cách khác, Trung Quốc muốn trở thành bá quyền trong khu vực (regional hegemon).
Điều này không liên quan đến việc chính quyền Trung Quốc tốt hay xấu, mà chỉ đơn giản là cách cư xử của mọi siêu cường đang lên.
Mỹ với học thuyết Monroe (Monroe Doctrine) đã đẩy các cường quốc châu Âu ra khỏi Tây bán cầu để thống trị châu Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Đế quốc Nhật cũng đã nỗ lực bành trướng và xây dựng “khối thịnh vượng chung Đại Đông Á” vào những năm 20-30 của thế kỷ trước. Để bảo vệ quyền lợi của mình, ông tin Trung Quốc cũng sẽ có một “học thuyết Monroe” của riêng mình trong kỷ nguyên mới.
Đó cũng là cách duy nhất để quốc gia này đòi lại Đài Loan, khu vực đã phát triển thành một quốc gia độc lập nhưng Bắc Kinh vẫn luôn coi là một phần lãnh thổ không thể tách rời.
Và họ sẽ làm điều đó bất chấp những thiệt hại về kinh tế, bởi động cơ cho chính sách ngoại giao của Trung Quốc ngày nay mang đậm chủ nghĩa dân tộc.
“Cũng như Mỹ, Trung Quốc nghĩ rằng vị trí và sự thần phục của các quốc gia khác còn quan trọng hơn của cải và an ninh,” Ông Kagan từ viện Brookings phân tích.
Những động thái tuyên bố “lợi ích cốt lõi” ở biển Hoa Đông và biển Đông, thiết lập vùng nhận diện phòng thủ trên không (ADIZ), gây sự với Nhật Bản, Việt Nam, và Philippines, đồng thời cảnh báo Mỹ không được can dự, cho thấy Bắc Kinh đang dần hiện thực hóa chính sách Monroe kiểu Trung Quốc.
Tham vọng bá quyền khu vực của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với việc họ liên kết với một bá quyền khu vực khác, nước Nga của Putin, là điều không thể tránh khỏi. Lý do là bởi các cường quốc khu vực sẽ muốn làm cho kẻ thù chung của họ, nước Mỹ, không lúc nào rảnh tay để đối phó với từng quốc gia.
Nguy cơ từ biển
Chiến lược gia hải quân Mỹ Alfred Thayer Mahan từng cho rằng, khả năng thống trị đại dương sẽ quyết định cuộc chiến “giữa những người khổng lồ” trong thế kỷ 21.
Hiện tại, Bắc Kinh vẫn đang tích cực xây dựng lực lượng hải quân cho cái họ gọi là “chiến lược phòng ngự biển xa” (Far sea defense). Nhưng với tàu sân bay, tàu ngầm, và mới đây nhất là giàn khoan di động, ai cũng hiểu được rằng tính chất “phòng ngự” của Trung Quốc có thể chuyển sang “tấn công” bất cứ lúc nào.
Trong lịch sử, nước nào làm chủ được biển cả sẽ thống trị được đất liền. Các quốc gia đã từng là “siêu cường” (superpower) đều có sức mạnh hải quân vượt trội: đế quốc Anh trong thế kỷ 17-19, Mỹ và Liên Xô trong thế kỷ 20, và Mỹ trong thế kỷ 21. Trung Quốc, dù vẫn còn rất xa để tiến tới vị trí đó, không hề giấu diếm ý đồ phát triển quân đội theo hướng tăng cường khả năng viễn chinh (power projection).
Chiến lược hải quân hiển nhiên không thể thiếu biển. Tuy vậy, vòng kim cô của Mỹ từ biển Hoàng Hải (đóng quân ở Hàn Quốc) đến biển Hoa Đông (Okinawa và Đài Loan), khiến cho Trung Quốc bị chặn đứng đường ra Thái Bình Dương. Họ chỉ có một cửa duy nhất để hiện thực hóa tham vọng của mình: đó là biển Đông.
Có được biển Đông, Bắc Kinh không chỉ đảm bảo cho kế hoạch “siêu cường” thành hiện thực, mà còn giúp quốc gia này kiểm soát được một trong những tuyến đường vận tải biển quan trọng nhất thế giới, nơi hơn một nửa số hàng hóa toàn cầu qua lại hàng năm. Hầu hết lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc cũng đi qua biển Đông (4.5 triệu thùng trên tổng số 6.5 triệu mỗi ngày, số liệu từ Trung tâm Thông tin Năng lượng Mỹ EIA).
Biển Đông cũng là mắt xích tối quan trọng để Bắc Kinh đảm bảo kế hoạch “chuỗi ngọc trai” (String of Pearls), nhằm kiểm soát tuyến vận tải năng lượng-thương mại từ châu Phi qua Ấn Độ Dương, thành công.
Vậy nên không có gì lạ khi Trung Quốc gia tăng tuyên bố chủ quyền trên biển Đông khi nhận thấy rằng tiềm lực kinh tế của họ đã ngang ngửa với Mỹ (theo số liệu mới nhất GDP đã vượt qua Mỹ).
Thêm vào đó, việc các quốc gia tranh chấp trong khu vực không phải là đồng minh của Mỹ (Việt Nam), hoặc đồng minh không có tính ràng buộc cao (Philippines và Malaysia), khiến Trung Quốc tin rằng hành động gây hấn của họ sẽ không dẫn đến can thiệp mạnh mẽ nào từ Washington.
Lựa chọn nào cho Việt Nam?
Việc một Trung Quốc trỗi dậy và trở nên hung hãn hơn trong khu vực là không thể tránh khỏi. Như phân tích ở trên, nó bao gồm cả yêu cầu về lợi ích kinh tế, chủ nghĩa dân tộc, và nhận thức của chính quyền Bắc Kinh về quyền lực của họ trong trật tự thế giới mới.
Gideon Rachman, trưởng ban bình luận quốc tế của tờ Financial Times có nói rằng, thậm chí Trung Quốc có trở thành một nền dân chủ đi chăng nữa thì họ cũng sẽ xử sự như vậy.
Và trong trường hợp quốc gia này dừng “trỗi dậy” về mặt kinh tế và đi vào khủng hoảng, nguy cơ xung đột cho các nước láng giềng có thể còn tăng lên. Bởi công cụ chính trị lúc đó sẽ rất dễ bị lợi dụng để đánh lạc hướng các mối lo kinh tế.
Bất ổn ở một quốc gia có vũ khí hạt nhân và tiềm lực quốc phòng như Trung Quốc thực sự sẽ là một thảm họa.
Như vậy, trong bất cứ hướng đi nào của Trung Quốc, Việt Nam đều phải đối phó với nhiều thách thức hơn từ phương Bắc trong thế kỷ 21. Với một nước yếu hơn họ về mọi mặt, Việt Nam có những sự lựa chọn nào?
Trong bài bình luận của mình về sự kiện giàn khoan Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam vừa qua, cây viết nổi tiếng Thomas Friedman của tờ New York Times bình luận rằng Việt Nam đang ở cạnh ông lớn ngang ngược, “muốn uống sữa của mình và cả của hàng xóm.”
Ông Friedman cho rằng cách duy nhất để Việt Nam đối phó với Trung Quốc chính là vận dụng truyền thống đoàn kết của dân tộc: xây dựng xung quanh mình mạng lưới đồng minh để “tái cân bằng” sự trỗi dậy của Bắc Kinh, tránh để họ bẻ đũa từng chiếc.
Ở châu Á, không thiếu những nước có lo ngại về Trung Quốc: Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Malaysia, và Hàn Quốc. Tất cả đều có những tranh chấp về chủ quyền với Bắc Kinh.
Ông Friedman còn gợi ý Việt Nam cần một đồng minh đủ tiềm lực quân sự để khiến Trung Quốc phải dè chừng: đó là Hoa Kỳ.
Cùng với đó, thế giới ngày hôm nay khác xa với thời chân lý của kẻ mạnh mấy thế kỷ trước, khi nước lớn tùy thích đem quân đi chinh phạt nước bé. Tất cả các quốc gia hiện đại đều phải chấp hành luật lệ quốc tế, chứ không được hành động ngang ngược tùy thích.
Điều này sẽ có lợi cho Việt Nam nếu chúng ta xử lý mọi việc minh bạch, sử dụng luật pháp quốc tế để bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời tăng cường truyền thông để lôi kéo sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Trong mọi trường hợp, cần phải tránh sự khiêu khích của Trung Quốc và chỉ sử dụng vũ lực để tự vệ. Bởi theo như Gregory Poling từ Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS ở Washington D.C, có thể Trung Quốc đang muốn “nhử” Việt Nam vào bẫy để leo thang cuộc chiến trên biển.
Về dài hạn, phải nhìn thẳng vào thực tế rằng Trung Quốc sẽ có những hành động gây hấn thường trực trên biển Đông, bởi đó là con đường duy nhất để họ trở thành “siêu cường”. Cho nên bên cạnh những hoạt động ngoại giao và quân sự, Việt Nam cần phải chuẩn bị sẵn sàng về mặt kinh tế: đó là phát triển mạnh mẽ hơn, giảm lệ thuộc vào đầu tư và thương mại từ Trung Quốc.
Điều đó không có nghĩa là giảm quan hệ kinh tế với nước láng giềng, mà là khiến mối quan hệ đó trở nên bền vững hơn, hai chiều hơn. Hiện tại, Việt Nam có thâm hụt thương mại lớn nhất với Trung Quốc, đến hơn 36 tỷ đô la vào năm ngoái. Trong vòng một thập kỷ, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc tăng đến 113 lần. Không tự chủ được về mặt kinh tế thì sẽ rất khó để Việt Nam đối chọi lại với con rồng đang lên.
Nói như Tiến sỹ Nguyễn Đức Thành thuộc Trung tâm Nghiên Cứu Kinh tế và Chính sách, con đường duy nhất để Việt Nam tránh được mối nguy từ Trung Quốc là trở nên văn minh hơn, giàu có hơn họ. “Điều đó đòi hỏi sự can đảm và kiên nhẫn, nhưng nằm trong khả năng thực hiện của chúng ta.”
Trong tiếng Trung Quốc, từ “khủng hoảng” vừa có “nguy” vừa có “cơ hội”. Các “con rồng Châu Á” đạt được tốc độ phát triển thần kỳ và hiện đại hóa nhanh chóng chỉ trong vài chục năm, theo Ezra Vogel từ ĐH Harvard, một phần là bởi các nước này đều bị đặt trong sức ép phải phát triển kinh tế để tự chủ và giảm bớt mối đe dọa chiến tranh từ các nước láng giềng (Hàn Quốc bởi Bắc Triều Tiên, và Đài Loan bởi Trung Quốc).
Mối đe dọa từ sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể sẽ tạo ra sức ép canh tân chính trị và kinh tế giúp Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn trong dài hạn. Làm được điều này sẽ không chỉ giúp Việt Nam thoát khỏi nguy cơ bị chèn ép, mà còn tạo bàn đạp để trở thành một quốc gia giàu có và cường thịnh hơn.
*Bài được đăng theo 2 kỳ trên Vietnamnet:
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/177982/trung-quoc-tham-vong-ba-quyen-khu-vuc.html
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/177999/can-tranh-moi-khieu-khich-cua-trung-quoc.html
Tài liệu tham khảo (bạn nào muốn tham khảo các tài liệu không access online được vui lòng để lại địa chỉ e-mail dưới phần comment)
- Beckley, Michael (2011/12), ‘China’s Century: Why America’s Edge Will Endure’, International Security, 36:3, pp. 41-78, except 58-73.
- Deudney, Daniel and Ikenberry, John (2009). ‘The Myth of Autocratic Revival: Why Liberal Democracy Will Prevail’, Foreign Affairs, 88:1, 77-93. (SB)
- Economist (2014). Chinese and American GDP forecasts: Catching the eagle.
- Friedman, Thomas (2014). More chopsticks, please. New York Times.
- Kagan, Robert (2007), ‘End of Dreams, Return of History’, Policy Review 144 (11 pp.).
- Kagan, Robert (2008), ‘History’s Back: Ambitious autocracies, hesitant democracies’, The Weekly Standard, 13: 46, 25 August, 5 pp.
- Kagan, Robert (2008), ‘Dangerous Nation’, International Politics, 2008, 45, (403–412)
- Ikenberry, John (2008), ‘The Rise of China and the Future of the West: Can the Liberal System Survive?’, Foreign Affairs, Vol. 87, No. 1 (Jan. – Feb., 2008), pp. 23-37
- Mearsheimer, J. J. (2010). The gathering storm: China’s challenge to US power in Asia. The Chinese Journal of International Politics, 3(4), 381-396.
- Rachman, Gideon (2011). ‘This Time It’s for Real’, Foreign Policy, 184, Jan-Feb., pp. 59-63.
- Stockholm International Peace Research Institute (SIPR) database (2012, 2013)
- Sørensen, Georg (2006), ‘What Kind of World Order? : The International System in the New Millennium’, Cooperation and Conflict 2006, 41: 343
- Vogel, E. F. (1991). The four little dragons: The spread of industrialization in East Asia (Vol. 3). Harvard University Press.
Quan điểm và cách phân tích vấn đề trong bài viết của anh khiến em được mở mang thêm rất nhiều.
Em hy vọng có thể được tiếp cận với những nguồn tài liệu anh đề cập đến trong bài viết để hiểu sâu hơn về những quan điểm của anh ạ.
Đây là email của em: milkyway.ob@gmail.com