Người lính Nhật và câu chuyện niềm tin

Ông Onoda trao kiếm đầu hàng tổng thống Philippines năm 1974
Ông Onoda giã từ vũ khí năm 1974

Hãy tưởng tượng bạn phải tồn tại một mình trong rừng, không quân trang, không đồng đội, luôn sẵn sàng chiến đấu đến cùng bởi đã nhận mệnh lệnh không được bỏ vị trí? 30 năm ròng rã cắt đứt hoàn toàn liên lạc với thế giới bên ngoài, không gia đình, không vợ con, không bạn bè, và luôn đối diện với cái chết chỉ vì một lời thề?

Ông Hiroo Onoda, người lính Nhật trong thế chiến đệ nhị vừa mới qua đời ngày hôm qua, làm được điều đó. Sau khi Nhật hoàng đầu hàng Đồng Minh vào tháng 8/1945, ông này vẫn đang nhận nhiệm vụ ở Philippines.

Không hay tin, ông trốn vào rừng và tiếp tục chiến tranh du kích với “kẻ thù” trong suốt 30 năm trời. Ông Onoda chỉ chấp nhận đầu hàng khi chính phủ gửi phái đoàn đến thông báo chiến tranh kết thúc.

Hầu hết các tờ báo lớn của phương Tây đều đưa tin về cái chết của Hiroo Onoda, như Guardian, New York Times, hay Washington Post, không phải bởi ông là Tarzan Châu Á, mà qua câu chuyện cá nhân của ông mới thấy được sức mạnh tinh thần ghê gớm của người Nhật. Chẳng phải ngẫu nhiên mà đất nước này vượt qua hết gian lao này đến gian lao khác để thành hùng bá một phương.

Một dân tộc không có tài sản hữu hình nào trong tay thì chỉ có tinh thần là vũ khí lợi hại nhất. Trong tinh thần có hai thứ quan trọng là tính nhẫn nại và niềm tin. Người Nhật có cả hai. Chúng ta thì không.

Sẽ không quá đáng lắm nếu bảo người Việt chẳng tin vào thứ gì. Chúng ta đúng là vô thần vô thánh. Hôm nay cúng bái tổ tiên, ngày mai có thể hôi của ngoài đường. Đầu tháng đi lễ chùa, cuối tháng cưỡi xe máy câu trộm chó.

Về cơ bản có một chút tín ngưỡng nào đó cũng chỉ mong các thần thờ lại mình: cầu kiếm được từng này tiền, yêu được từng ấy cô, thăng được bao nhiêu chức. Nghĩ đến chuyện vì đại cuộc quên mình thì ôi thôi, xa vời lắm.

Tất nhiên kiểu chẳng tin vào cái gì đôi lúc cũng hay. Có chuyện thời sau giải phóng miền Bắc năm 1954, bên Tàu rầm rộ phong trào trăm hoa đua nở rồi cách mạng văn hóa, cũng muốn người Việt được giác ngộ tư tưởng.

Ông anh muốn biếu ông em một đống sách trước tác Mao Trạch Đông, đề nghị phân phát cho nhân dân học tập. Tiến thoái lưỡng nan: không nhận thì không xong với ông anh, nhận thì sợ dân mình bị nhồi sọ lại càng chết.

Rốt cuộc cũng tặc lưỡi nhận. Ngày đi phát, quần chúng tranh nhau nhận sách, các đồng chí anh em thấy vậy tỏ ý hài lòng lắm. Lãnh đạo nhà mình thì lo quá, mới phái người đi dò xem sự thể ra sao. Mới ồ lên nhẹ nhõm: quyển trước tác màu đỏ, bìa cứng, bọc sách vở rất đẹp, còn giấy dó bên trong chất lượng tốt, đun lò bén rất nhanh. Tư tưởng đấy: bìa rất oách, bên trong là gì thì không biết.

Đỏ vỏ rỗng lòng
Đỏ vỏ rỗng lòng

Quay trở lại vấn đề chính: người Việt chẳng tin vào gì cả. Chúng ta không tin tư bản, cũng chẳng tin chủ nghĩa xã hội. Thử hỏi xem trong hàng triệu Đảng viên, được bao nhiêu người đã đọc “Tư bản” hay thậm chí là “Tuyên ngôn Cộng sản”?

Sống không niềm tin thì rất sướng: chẳng phải đấu tranh, không cần suy nghĩ, ai động đến quyền lợi của mình thì oai oái, không thì thôi.

Chẳng phải ngẫu nhiên mà người Việt hay được xếp vào hàng hạnh phúc nhất thế giới. Một mái nhà tranh hai quả tim vàng vẫn thấy vui. Nhưng nếu vậy thì đừng phàn nàn nọ kia là sao mình không được như Nhật, như Singapore, đi lại khắp nơi bị người ta nhòm ngó bởi là người Việt.

Một bài viết gần đây của anh Giáp Văn Dương, đăng lại trên Vietnamnet, cho rằng xã hội đang kiệt quệ niềm tin. Tôi thì cho rằng chúng ta còn không có niềm tin để mà kiệt quệ. Thời đại gần nhất mà dân tộc Việt Nam có niềm tin là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, khi đúng là sức mạnh tinh thần vực dậy được yếu kém về vật chất.

Đào được cả thành phố ngầm dưới đất, xẻ núi xẻ rừng làm đường đi, hay ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch, tinh thần đó nếu không hơn thì cũng phải ngang ngửa với người Nhật.

Nhưng như mấy ông siêu Xayda trong truyện tranh Nhật Bản, chúng ta chỉ có sức mạnh khi căm phẫn, khi bị dồn đến bước đường cùng, chứ khi hòa bình thì đâu lại vào đấy. Vui vẻ như anh nông dân cày xong thửa ruộng, nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành, mặc xác đời ra sao thì ra.

Đó là một tâm lý cực kì đáng ngại. Nạn ngoại xâm, suy cho cùng, cũng chỉ xảy ra khi đất nước yếu kém, nhu nhược, điều đó rõ như ban ngày trong lịch sử mấy nghìn năm của người Việt. Nếu chúng ta không có niềm tin, không đồng lòng vì một cái chung gì đó, thì sẽ chẳng khác nào giã từ vũ khí cho kẻ thù.

Và trong thời đại này, sẽ chẳng ai dùng súng, mà sẽ có tiền, có hàng hóa, có phim truyện, có sách báo, có mấy em ca sĩ xinh tươi, đến xâm lược chúng ta. Rồi chúng ta sẽ là một ông Hàn con, ông Tàu con, hay ông Mỹ con, chứ không phải là dân Hùng Vương nữa.

Con nhái ngủ quên trong làn nước ấm sẽ có ngày bị nước đun sôi. Thành nhái ôm măng rồi thì có đủ bảy viên ngọc rồng cũng chẳng hồi sinh được.

Advertisement

5 thoughts on “Người lính Nhật và câu chuyện niềm tin

  1. thực ra tôi nghĩ trường hợp của ông Onoda là một trường hợp thú vị (chứ không phải hay), và bọn Tây nó quan tâm vì quá là lạ với văn hóa của nó, nhưng đặt trong bối cảnh văn hóa Nhật Bản đầy cực đoan thì không phải quá lạ. Nói về sự cực đoan thì dù tin mù quáng hay không có chút niềm tin nào cũng đều là những thái cực đầy bệnh tật. Thế nên tôi thấy so sánh ôm bom ba càng của Việt Nam với tinh thần mấy ông phi công Kamikaze của Nhật là không phù hợp lắm, vì nó nằm trong hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau và mục đích cũng khác nhau: một bên đành phải chết vì không còn cách nào khác, một bên chỉ biết chết vì Nhật Hoàng thôi, không biết cách nào khác.

    1. Tôi nghĩ Kamikaze vì Nhật hoàng nhưng một phần nào đó cũng là chủ nghĩa yêu nước. Tôi cũng không nghĩ có sức mạnh tinh thần kiểu Nhật là lý tưởng, vì như ông nói, niềm tin đôi khi mù quáng và dễ bị lợi dụng. Cái đó theo tôi chỉ là dạng sơ khai của vốn xã hội, tạm gọi là public trust. Còn khi nào niềm tin có lý trí như mấy nước Bắc Âu hoặc Đức, public reason, khi đó vốn xã hội mới thực sự mạnh.

  2. một niềm tin xịn thực sự cần rất nhiều tri thức, còn lại tất cả đều chỉ là hàng già cầy mà thôi. Với mặt bằng chung của Việt Nam hiện nay thì điều ấy quá xa vời. Ngay cả như thời đánh Pháp và Mỹ, tôi nghĩ cái to nhất là quyết tâm, chứ niềm tin chưa chắc đã là niềm tin đích thực, càng không nói đến niềm tin cộng sản, vì có mấy ai hiểu cộng sản đâu. .

  3. Hãy nghĩ đến những nạn nhân vô tội người Philippines bị chết dưới tay ông lính này rồi hãy bàn đến chuyện tinh thần của người Nhật. Hãy đặt mình vào hoàn cảnh người thân của họ trước khi khen ông lính ngoan cố người Nhật này, toàn là anh hùng bàn phím. Vớ vẩn

    1. Tôi không bàn về khía cạnh đạo đức đúng-sai ở đây, tôi chỉ nói về niềm tin. Niềm tin có cả tốt lẫn xấu, cả Đức và Nhật đều gây tội ác trong quá khứ, cái đó ai cũng biết. Nhưng từ đống đổ nát sau Thế chiến để trở thành hai quốc gia đó như bây giờ, tôi nghĩ không phải là điều ngẫu nhiên.
      Và ông chiến sĩ này, hay toàn bộ người Nhật, rốt cuộc đâu có phải là ông thánh? Ông hi vọng người ta làm gì trong một cuộc chiến tranh?
      Nhân tiện, trước khi nói ai đó là anh hùng bàn phím, tôi mong ông định nghĩa được thế nào là “anh hùng bàn phím.” Dùng lý lẽ mà tranh luận, chứ đừng có chụp mũ người khác.

Leave a Reply to Thăng Long đệ bét kiếm Cancel reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s